Bệnh thống phong hay còn gọi là bệnh Goutte (Gút) hay hội chứng Goutte là danh từ dùng để chỉ một nhóm tình trạng bệnh lý gồm nhiều thời kỳ viêm khớp tái đi tái lại, tương ứng với sự hiện diện của các tinh thể axit uric hoặc tinh thể muối urat ở trong dịch khớp. Trong nhiều trường hợp có thể có sự tích tụ các tinh thể này ở ngoài khớp như ở trong thận, trong một số mô dưới da. Có hai loại chính:
- Goutte nguyên phát: Có tính chất di truyền.
- Goutte thứ phát: Thường là hậu quả tiến triển của một bệnh hay là hậu quả của việc sử dụng thuốc lâu ngày (như thuốc lợi tiểu, aspirin liều thấp). 90% trường hợp Goutte nguyên phát xảy ra ở đàn ông nếu ở phụ nữ chỉ thấy xảy ra ở tuổi mãn kinh. Goutte thứ phát hay gặp ở phụ nữ mắc bệnh tim mạch, có tăng huyết áp hoặc những bệnh nhân có bệnh ác tính về máu (bệnh đa u tủy xương (bệnh Kahler), bạch cầu kinh niên thể tủy, đa hồng cầu...), bị bệnh thận kinh niên hoặc bị ngộ độc chì.
Ở châu Âu: Goutte chiếm 0,02 đến 0,2% dân số, chủ yếu ở nam giới (chiếm tỷ lệ 95%), thường xuất hiện ở tuổi trung niên (30-40 tuổi).
Ở Việt Nam, theo thống kê của Bệnh viện Bạch Mai, bệnh Goutte chiếm 1,5% các bệnh về xương khớp.
1. Nguyên nhân
1.1. Nguyên nhân trực tiếp
Ở người bình thường, axit uric trong máu giữ mức độ cố định: nam 5mg/dl và nữ 4mg/dl. Tổng lượng axit uric trong cơ thể là 1000mg và lượng này luôn luôn được chuyển hóa (sinh mới và thải trừ).
- Sinh mới. Axit uric được tạo thành từ 3 nguồn:
+ Thoái biến từ chất có nhân purin do thức ăn mang vào.
+ Thoái biển từ chất có nhân purin từ trong cơ thể (các axit nhân ADN và ARN do sự phá hủy các tế bào giải phóng ra).
+ Tổng hợp các purin từ con đường nội sinh.
Ngoài sự hình thành axit uric từ 3 nguồn trên, còn cần sự tham gia của các men nuclease, xanthine oxyase, hypoxanthine guanin phosphoribosyl transferase (HGPT).
- Thải trừ: Để cân bằng, hàng ngày axit uric được thải trừ ra ngoài, chủ yếu theo đường thận (450-500mg/24 giờ) và một phần qua đường phân cùng với các đường khác là 200 mg.
1.2. Nguyên nhân gián tiếp
Tăng axit uric bẩm sinh: Bệnh Lesch - Nyhan: Do thiếu men HGPT nên lượng axit uric tăng cao ngay từ nhỏ, bệnh có biểu hiện toàn thân, thần kinh, thận và khớp. Bệnh rất hiếm và
- Goutte nguyên phát: Gắn liền với yếu tố di truyền và cơ địa, quá trình tổng hợp purin nội sinh tăng nhiều gây tăng nhiều axit uric.
- Goutte thứ phát: Axit uric trong cơ thể tăng do:
+ Ăn nhiều thức ăn có chứa nhiều purin (gan, lòng, thịt, cá, nấm, tôm, cua...), uống nhiều rượu. Đây cũng là tác nhân tác động gây bệnh cả nguyên phát và thứ phát.
+ Do tăng cường thoái biến purin nội sinh (phá hủy nhiều tế bào tổ chức) như bệnh đa hồng cầu, Leukemia mạn thế tủy, Hodgkin, sarcome hạch, đa u tủy xương hoặc do sử dụng những thuốc diệt tế bào để điều trị các bệnh ác tính.
+ Do giảm thải axit uric qua thận vì viêm thận mạn tính hoặc suy thận làm axit uric ứ lại gây bệnh.
Chúng ta biết khi lượng axit uric trong máu tăng cao (trên 7mg/dl hay 416,5µmol/l) và tổng lượng axit uric trong cơ thể tăng thì sẽ lắng đọng lại ở một số tổ chức và cơ quan dưới dạng tinh thể axit uric hay urat monosodic có thể: lắng đọng ở màng hoạt dịch gây viêm khớp, lắng đọng ở thận (nhu mô thận và đài bể thận), lắng đọng ở các nội tạng và cơ quan, gây các biểu hiện bệnh Goutte ở nơi này như: Sụn xương, sụn khớp, sụn vành tai, thanh quản, gân, gân Achilles, các gân duỗi các ngón; tổ chức dưới da: khuỷu, mắt cá, gối, thành mạch, tim, mắt.
Trong bệnh Goutte, urat monosodic lắng đọng ở thành hoạt dịch sẽ gây một loạt các phản ứng như: Hoạt hóa yếu tố Hageman tại chỗ, từ đó kích thích các tiền chất gây viêm như kininogen và kallicreinogen trở thành kinin và kallicrein, gây phản ứng viên ở thành hoạt dịch. Từ phản ứng viêm, các bạch cầu sẽ tập trung tới bạch cầu sẽ thực bào các vị tinh thể urat rồi giải phóng ra các men tiêu thể của bạch cầu (lysozyme), các men này cũng là một tác nhân gây viêm rất mạnh. Phản ứng viêm của màng hoạt dịch sẽ làm tăng chuyển hóa, sinh nhiều axit lactic tại chỗ và giảm độ pH, môi trường càng tăng cường toan thì urat càng lắng đọng nhiều và phản ứng viêm ở đây trở thành một vòng khép kín liên tục, viêm sẽ kéo dài. Do đó, trên lâm sàng thấy 2 thể bệnh Goutte: thể cấp tính và thể mạn tính.
- Thể bệnh Goutte cấp tính, quá trình viêm xảy ra trong một thời gian ngắn rồi chấm dứt, rồi lại tái phát.
- Thể bệnh Goutte mạn tính: quá trình lắng đọng urat nhiều và kéo dài, biểu hiện viêm liên tục không ngừng.
2. Triệu chứng
Có 3 giai đoạn rõ ràng
2.1. Giai đoạn nồng độ axit uric trong máu cao và chưa cổ biểu hiện trên lâm sàng
Hay gặp ở nam lúc tuổi dậy thì và nữ lúc tuổi mãn kinh. Có thể xuất hiện cơn đau quặn thận (10-40%) do sỏi urat trước.
2.2. Giai đoạn Goutte cấp tính
Goutte cấp tính được biểu hiện bằng những đợt viêm cấp tính và dữ dội của ngón chân cái (khớp bàn ngón), thường xảy đến bất thình lình. Cơn goutte cấp có thể khởi phát sau một số điều kiện thuận lợi như: Sau một bữa ăn nhiều thịt, rượu; sau chấn thương hoặc phẫu thuật.
- Lao động nặng, đi lại nhiều.
- Mang giày quá chật.
- Xúc động, cảm động.
- Nhiễm khuẩn cấp, sau khi dùng một số thuốc lợi tiểu như nhóm Chlorothiazide, tinh chất gan, Vitamin B12, Steroid....
- Khoảng 50% bệnh nhân có dấu hiệu báo trước như rối loạn tiêu hóa, nhức đầu, mệt mỏi, đái nhiều và nóng buốt, sốt nhẹ.
- Cơn thường xảy ra vào ban đêm, khoảng 2-3 giờ sáng: Đau nhức dữ dội ở khớp bàn ngón chân cái, càng lúc càng đau nhiều, đến nỗi dung vào tấm chăn mền cũng không sao chịu được. Con đau kéo dài đến sáng thì dịu dần, đến đêm hôm sau lại bắt đầu đợt đau như cũ. Một cơn goutte cấp tính có thể kéo dài vài ngày đến vài tuần. Bệnh nhân có sốt, có thể kèm theo rét run, nhiệt độ từ 38-39°C. Bệnh nhân càng đau nhiều thì sốt càng cao.
- Nơi khớp đau nhức sẽ có dấu hiệu viêm khớp cấp, da đỏ láng, phù nhẹ, có nhiều tĩnh mạch nổi lên. Hết cơn, bệnh nhân sẽ ngứa ở khớp, tróc da, khớp bị cứng từ 1-2 ngày rồi trở lại bằng thường không di chứng. Cơn cấp tính có thể tái phát nhiều là 7% không có cơn goutte cấp lần 2, nhưng phần lớn cơn goutte cấp lần 2 xảy ra từ sau 1 năm cho tới 10 năm.
2.3. Goutte mạn tính
Diễn tiến chậm, có thể có hoặc không có kèm theo các đợt cấp. Nếu có thì các đợt này xảy ra ít hơn, thời gian đầu ngắn hơn.
Goutte mạn tính biểu hiện bằng dấu hiệu nổi ở các u cục (tophi) và viêm đa khớp mạn tính. Do đó gọi là goutte lắng động
- Tophi là những cục tinh thể axit uric hoặc muối urat có ở màng khớp, sụn khớp, gần cơ, mô dưới da.
- Tophi xuất hiện một cách kín đáo, lớn dần, không di động, cứng dần, hình thể không đều, không đau, nhưng sự hiện diện ở khớp có thể làm cứng dẫn và dẫn đến biến dạng khớp.
- Da nơi tophi xuất hiện dễ bị loét, lỗ dò, chảy ra một chút trắng như phấn.
- Tophi ít khi bị nhiễm trùng nếu bội nhiễm rất khó chữa lành.
Biến dạng khớp
- Khớp nào ở giai đoạn goutte mạn tính cũng đều có thể bị tổn thương.
- Thường bị thương tổn ở nhiều khớp một lúc và là các khớp nhỏ ngoại biên.
- Khớp không đau lúc nghỉ ngơi nhưng đau và cứng khớp khi hoạt động.
Biến chứng nội tạng
- 1/3 trường hợp bệnh nhân đau sau cơn goutte có cơn đau quặn thận do có sự thành lập sỏi urat.
- Một số bệnh nhân có chức năng thận thay đổi. Diễn tiến bệnh thận rất chậm.
3. Cách phòng bệnh
- Chế độ ăn uống Ăn uống rất quan trọng đối với bệnh nhân goutte. Vì axit uric tạo thành từ thức ăn, thức uống, nên cần áp dụng chế độ ăn kiêng:
+ Kiêng hoàn toàn rượu, những thức ăn nhiều đạm chất có nhân purin: thịt chó, tạng phủ động vật (tim, gan, ốc, bầu dục, lòng, ruột...), nấm, cacao, sôcôla, cà pháo, tôm, cua, ốc, hến
+ Uống nhiều nước, nước khoáng giàu kiêm hoặc dung dịch
Natri Bicarbonat 3%.
+ Tránh lao động quá sức.
- Các loại thuốc Tây y không dùng: Các thuốc lợi tiểu furosemit, chlorothiazit và aspirin vì gây tăng axit uric máu.
LỐI SỐNG THỰC DƯỠNG HỖ TRỢ CHỮA BỆNH BỆNH GOUTTE
Nếu ăn uống theo chế độ quân bình Thực Dưỡng thì cơ thể “rất khó có bệnh”. Trong trường hợp bị bệnh thì chỉ cần kiểm soát chế độ ăn uống để cơ thể quân bình là có thể mau chóng hồi phục thể lực. Trong trường hợp, quý vị biết đến Thực Dưỡng khi trong người mang bệnh như bệnh tê nhức chân tay thì Thực Dưỡng là một trợ phương đắc lực để quý vị được chữa lành và có sức khỏe dẻo dai.
Điều mà nhiều người không biết là các loại thuốc Tây, kể cả thuốc bổ sung Vitamin, Thực phẩm chức năng, các loại từ công ty bán hàng đa cấp… đều làm từ hóa chất hoặc các chiết xuất, bổ sung, bảo quản bằng hóa chất nên nó là nguyên nhân chính gây bệnh: khi hóa chất lọt vào cơ thể, gan sẽ làm mọi cách để trung hòa, vô hiệu hóa các chất này và sau đó thận sẽ lọc, loại bỏ,…
“Thảo Dược từ Thiên nhiên” sẽ mang đến một phương pháp tối ưu. Những Dược thảo quý từ Thiên nhiên được chứng minh sẽ giúp cơ thể tái lập trạng thái quân bình từ đó tự chữa lành bệnh.
Các sản phẩm thảo dược được đề cập ở đây đến từ Công ty G & W Australia. Tất cả thuốc của G & W Australia đều là thuốc Đông Y (Herbal Medicine) nên quý vị có thể dùng để chữa bệnh hiệu quả trong khi các loại Dược thảo khác bán trên thị trường đều là thực phẩm bổ sung (Dietary Supplement) nên người tiêu dùng không thể chữa được bất cứ bệnh gì và để bán được hàng họ phải quảng cáo tinh vi và sớm hay muộn người tiêu dùng sẽ thất vọng.
Cần áp dụng Thực Dưỡng hiện đại và các thuốc từ thảo dược quý hiếm trong thiên nhiên để điều trị bệnh
1. Canh Dưỡng Sinh: Với thành phần là các loại rau củ hữu cơ giàu khoáng chất, canh dưỡng sinh giúp kiềm hóa môi trường máu, tiêu diệt vi khuẩn, thải độc cơ thể. Người mắc bệnh mỡ máu cao nên uống Ngày 2 lần mỗi lần 1 gói khi ăn sáng & chiều.
Nếu không tìm mua được Canh dưỡng sinh, quý vị có thể tham khảo Cách nấu Canh Dưỡng sinh tại CLB100.
2. Joint Essentials: Tái tạo sụn khớp. Ngày 2 lần – mỗi lần từ 1 – 2 viên trong khi ăn sáng & chiều.
Sản phẩm chứa nguyên liệu có nguồn gốc từ hải sản
3. PainGo: Giảm triệu chứng viêm, đau khớp. Ngày 2 lần - mỗi lần 1 – 2 viên sau khi ăn sáng & chiều. Ngưng dùng hoặc sử dụng giảm dần khi tình trạng đau nhức giảm
4. Immune Reviver: Phục hồi hệ miễn dịch. Ngày uống 2 lần. Mỗi lần từ 1-2 viên sáng, chiều sau khi ăn.
4. Age Reviver: Phục hồi sinh lực toàn diện. Ngày uống 1 viên sau khi ăn trưa.
MỘT SỐ LƯU Ý KHI DÙNG THẢO DƯỢC:
- Trong 5 ngày đầu dùng Joint Essentials 01 viên/ lần/ ngày. Vì thảo dược trong Joint Essentials có hàm lượng cao cơ thể cần thời gian thích ứng, nên tăng lượng uống dần.
- Riêng Immune Reviver, PainGo và Canh dưỡng sinh thì áp dụng ngược lại (từ lượng nhiều rồi giảm dần)
Các thuốc đề cập ở trên như Joint Essentials, Paingo, Immune Reviver, Age Reviver đều được nghiên cứu và phát triển bởi một nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ GR Hu đứng đầu. Bác sĩ Hu có hơn 40 năm kinh nghiệm lâm sàng và nghiên cứu, đặc biệt trong lĩnh vực y học chống lão hóa, miễn dịch và dị ứng tại Đại học Sydney và Đại học Y Thượng Hải.
Nếu quý vị đang đau nhức tay chân, mong bài viết này có thể sẽ hữu ích cho quý vị. Hãy đương đầu với căn bệnh này bằng thái độ quý trọng sự sống, và lòng biết ơn với những thức ăn thức uống mà quý vị có. Chú tâm đến nhu cầu tâm linh, tinh thần lạc quan là cũng chính là phương thuốc hay để quý vị có thể chịu đựng những khốn khó của căn bệnh này. Tấm lòng vui mừng là phương thuốc hay - Tinh thần suy sụp làm sức hao mòn.