Hệ tuần hoàn thật ra là hai hệ thống làm việc cùng nhau. Một là hệ tim mạch, bao gồm tim, máu, và tất cả các mạch máu. Hệ kia là hệ bạch huyết- một mạng lưới mạch dẫn dịch dư gọi là bạch huyết, từ các mô của cơ thể trở lại dòng máu. Nếu có thể nối các mạch máu trong cơ thể một người lớn, đầu này giáp đầu kia, thì nó dài 100.000 kilomet và có thể chạy vòng quanh trái đất hai lần rưỡi! Hệ thống đại quy mô này mang máu cần cho sự sống, chiếm 8 phần trăm trọng lượng cơ thể, đến hàng tỷ tế bào.
Nguồn năng lực đằng sau hệ tim mạch dĩ nhiên là tim. Kích thước bằng một bàn nắm tay, mỗi ngày tim bơm khoảng 9.500 lít máu đi khắp cơ thể - tương đương với việc nâng trọng lượng một tấn lên cao 10 mét mỗi ngày.
Máu lưu thông như thế nào?
Hãy bắt đầu với máu thiếu oxy. Máu này chảy về tim qua hai tĩnh mạch lớn – tĩnh mạch chủ trên và dưới. Những tĩnh mạch này đổ vào phòng đầu tiên của tim, tâm nhĩ phải. Tâm nhĩ phải ép máu vào một phòng nhiều cơ, tâm thất phải. Từ đây máu đi lên phổi xuyên qua ống phổi và hai động mạch phổi – hai động mạch duy nhất mang máu thiếu oxy. Điều này thường là việc của tĩnh mạch.
Ở phổi máu nhả khí Cacbo đioxit và nhận khí oxy. Rồi chạy xuống tâm nhĩ trái qua bốn tĩnh mạch phổi – bốn tĩnh mạch duy nhất mang máu giàu oxy. Tâm nhĩ trái đổ xuống phòng mạnh nhất của tim, tâm thất trái, từ đó máu nhiều oxy được bơm ra khắp cơ thể qua động mạch chủ. Hai tâm nhĩ co cùng lúc rồi tới hai tâm thất, tạo nên một nhịp đập của tim.
Vì phải bơm máu lên khắp tứ chi của thân thể, cơ bắp của tâm thất trái nặng hơn tâm thất phải sáu lần. Áp suất tạo thành có thể gây ra sự phình mạch (thành động mạch bị nong hoặc phình) hay thậm chí có thể gây ra các đột quỵ trong não có thể chết nếu không nhờ một cơ quan tinh xảo hấp thụ các áp suất đột khởi.
Động mạch lớn nhất của cơ thể, động mạch chủ và những nhánh của nó tạo thành “các động mạch có tính đàn hồi”. Phần trong thành động mạch này rộng, khiến máu chảy dễ dàng. Nó cũng có các vách bằng cơ dầy đan với các lớp đồng tâm làm bằng elastin, một chất protein như cao su. Khi tâm thất trái bơm máu vào các động mạch này, chúng dãn ra hoặc phồng lên, hấp thu áp suất cao và đẩy máu tới nhóm động mạch kế, là các động mạch cơ; thành của những động mạch này cũng có elastin. Nhờ thiết kế đặc biệt này nên đến lúc máu chảy tới các mao mạch mỏng manh, thì áp huyết đã ổn định.
Huyết áp được đo bằng khoảng tăng của cột thủy ngân, bằng milimét. Độ cao và thấp của áp suất do tim đập và nghỉ được gọi là huyết áp tâm thu và tâm trương. Các áp huyết này của mỗi người mỗi khác, tùy theo tuổi tác, giới tính, tình trạng căng thẳng tinh thần và thể chất, và mệt mỏi. Huyết áp của phụ nữ thường thấp hơn đàn ông, áp huyết trẻ em thấp hơn và người già cao hơn. Mặc dù có những ý kiến khác nhau đôi chút về áp huyết, nhưng một người trẻ mạnh khỏe có thể có từ 100 đến 140 milimét thủy ngân áp huyết tâm thu và 60 tới 90 milimét áp huyết tâm trương.
Những tiểu động mạch có đường kính trung bình khoảng 1 centimét tới 0,3 milimét. Do các sợi thần kinh đặc biệt đều khiển, các mạch máu này co dãn, giúp điều hòa dòng máu chảy, khiến hệ tuần hoàn rất linh hoạt. Ví dụ, trong trường hợp chấn thương hay báo động, các dây thần kinh áp suất trong vách động mạch báo tới não, rồi não truyền lệnh cho các động mạch thích hợp giảm bớt lượng máu chảy tới các vùng ít quan trọng như da và chuyển hướng máu về các cơ quan chính yếu. Báo New Scientist nói: “Các động mạch có thể ‘cảm nhận’ dòng máu chảy và phản ứng”. Vậy thì có gì lạ không nếu các động mạch được gọi là “các ống dẫn khôn ngoan”?
Lúc máu ra khỏi động mạch nhỏ nhất—các tiểu động mạch—áp suất của nó ổn định, khoảng 35 milimét thủy ngân. Áp suất thấp và ổn định ở đây là tối cần thiết vì các tiểu động mạch nhập với các mạch máu nhỏ nhất trong các mạch máu, đó là mao mạch.
Trong các mao mạch rất nhỏ với đường kính là 8 đến 10 micron (1 phần triệu của 1 mét), các hồng cầu chảy qua theo hàng một. Mặc dù thành mao mạch chỉ dày bằng một lớp tế bào, nó vận chuyển chất dinh dưỡng (bằng huyết tương, phần lỏng của máu) và khí oxy (bằng hồng cầu) tới các mô kế cận. Đồng thời khí cacbon đioxit và các phế thải khác tan ra từ các mô nhập lại mao mạch để được loại ra. Bằng một cơ nhỏ li ti giống như nút dây gọi là cơ thắt, các mao mạch cũng có thể điều hòa hướng máu chảy qua nó tùy theo nhu cầu của các mô xung quanh.
Từ tiểu tĩnh mạch vào tĩnh mạch rồi tới tim
Lúc máu rời khỏi mao mạch, nó chảy vào các tĩnh mạch li ti, gọi là tiểu tĩnh mạch. Khoảng 8 đến 100 micron đường kính, các tiểu tĩnh mạch hợp lại thành tĩnh mạch đem máu trở về tim. Khi về đến các tĩnh mạch, máu mất gần hết áp suất, vì vậy thành tĩnh mạch mỏng hơn thành động mạch. Nó cũng có ít elastin hơn. Thế nhưng lòng nó rộng hơn, do đó các tĩnh mạch chứa tới 65 phần trăm máu của cơ thể.
Để bù vào việc áp huyết thấp, các tĩnh mạch đưa máu trở về tim một cách tinh vi. Thứ nhất, nó được trang bị với các van đặc biệt giống hình cái chén để ngừa trọng lực rút máu khỏi tim. Thứ hai, nó dùng cơ xương của thân thể. Như thế nào? Ví dụ, khi bạn bước đi, các cơ của chân cong lại, ép các tĩnh mạch gần đó. Điều này đẩy máu về tim xuyên qua các van một chiều. Cuối cùng áp suất trong bụng và lồng ngực, biến đổi theo nhịp thở, giúp các tĩnh mạch trút máu vào tâm nhĩ phải.
Hệ tim mạch rất công hiệu, ngay cả khi cơ thể ở trạng thái nghỉ nó có thể đưa khoảng 5 lít máu về tim mỗi phút! Đi bộ thì khoảng 8 lít, và một người chạy đường trường có thể có tới 37 lít máu qua tim mỗi phút—gấp 7 lần lượng máu lúc nghỉ!
Trong vài trường hợp các van tĩnh mạch có thể bị rỉ vì di truyền, hoặc vì chứng béo phì, có thai hay đứng lâu. Khi các van này yếu, máu tụ lại bên dưới van, làm cho tĩnh mạch dãn ra và trở thành bệnh căng dãn tĩnh mạch. Cũng vậy, việc rặn như khi sanh con hoặc đi tiêu đi ngoài làm tăng áp suất trong bụng, cản trở máu trở về từ các tĩnh mạch hậu môn và ruột già. Điều này có thể gây ra bệnh trĩ.
Khi mao mạch đưa chất bổ tới các mô và nhận chất thải, nó cho chất lỏng nhiều hơn là nhận lại. Các chất protein quan trọng của máu rỉ vào các mô. Vì vậy thân thể cần đến hệ bạch huyết. Hệ này thu tất cả các chất lỏng thừa, gọi là bạch huyết, và đưa nó trở lại dòng máu bằng một tĩnh mạch lớn nơi chân cổ và một cái khác trong ngực.
Cũng như với động mạch và tĩnh mạch, có nhiều loại mạch bạch huyết. Cái nhỏ nhất gọi là mao mạch bạch huyết, xuất hiện ở mạng mao mạch. Nhờ có tính dễ thấm cao độ, các mạch nhỏ li ti này hấp thu các chất lỏng thừa và hướng nó tới các mạch tích trữ bạch huyết lớn hơn, để đưa bạch huyết tới các thân mạch bạch huyết. Các thân này hợp lại thành các ống bạch huyết, từ đó đổ vào các tĩnh mạch.
Bạch huyết chỉ chảy một chiều—về hướng tim. Vì vậy các mạch bạch huyết không hợp thành một vòng như hệ tim mạch. Các cơ của mạch bạch huyết yếu, nhờ vào nhịp đập của các động mạch gần đó và hoạt động của tứ chi, giúp đẩy dòng bạch huyết lưu thông trong hệ. Bất cứ sự tắc nghẽn nào của các mạch bạch huyết sẽ làm chất lỏng tụ lại trong vùng bị tắc, làm sưng gọi là phù nề.
Các mạch bạch huyết cũng là những đường xâm nhập của sinh vật gây bệnh. Cho nên Đấng Tạo Hóa đã trang bị hệ bạch huyết với những hệ thống phòng thủ hữu hiệu, tức các cơ quan bạch huyết gồm: các hạch bạch huyết nằm rải rác theo các mạch tích trữ bạch huyết, lách, tuyến ức, amyđan, ruột thừa, và các màng lympho (màng Peyer) trong ruột non. Các cơ quan này giúp sản xuất và tích trữ các lympho bào, tức những tế bào chính của hệ miễn dịch. Do đó, một hệ bạch huyết lành mạnh góp phần làm thân thể lành mạnh.
Cuộc thăm viếng hệ tuần hoàn của chúng ta kết thúc ở đây. Tuy nhiên, ngay cả cuộc viếng thăm ngắn này cũng đủ cho thấy một thiết kế diệu kỳ, phức tạp và hữu hiệu đáng kinh ngạc. Hơn thế, hệ tuần hoàn lặng lẽ làm nhiệm vụ bất tận của nó, mà bạn không hề biết tới—trừ phi nó bệnh. Vậy hãy chăm sóc hệ tuần hoàn của bạn, rồi nó sẽ chăm sóc bạn.
►Ung thư không phải là bệnh mà là cơ chế tự chữa lành của cơ thể
3. Immune Reviver: Phục hồi hệ miễn dịch. Ngày uống 2 lần. Mỗi lần từ 1-2 viên sáng, chiều sau khi ăn.
4. Age Reviver: Phục hồi sinh lực toàn diện. Ngày uống 1 viên sau khi ăn trưa.
Các thuốc đề cập ở trên như CardioZest , Immune Reviver, Age Reviver đều được nghiên cứu và phát triển bởi một nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ GR Hu đứng đầu. Bác sĩ Hu có hơn 40 năm kinh nghiệm lâm sàng và nghiên cứu, đặc biệt trong lĩnh vực y học chống lão hóa, miễn dịch và dị ứng tại Đại học Sydney và Đại học Y Thượng Hải.
Nếu quý vị đang mắc bệnh hệ tuần hoàn, mong bài viết này có thể sẽ hữu ích cho quý vị. Hãy đương đầu với căn bệnh này bằng thái độ tích cưc. Hãy kiên trì áp dụng Thực Dưỡng với lòng biết ơn Đấng tạo hóa. Quý trọng sự sống. Chú tâm đến nhu cầu tâm linh. Tinh thần lạc quan cũng chính là phương thuốc hay để quý vị có thể chịu đựng những khốn khó của căn bệnh này. Tấm lòng vui mừng là phương thuốc hay - Tinh thần suy sụp làm sức hao mòn.