090 66 55 044 0

Bệnh về da

Bỏng

Bệnh học theo âm dương

Bệnh về da

  • Ngày đăng19/12/2024
  • 598Lượt xem
  • Nguồn tinclb100.com
1. Nguyên nhân

Bỏng do nhiệt thường gặp nhất, chia thành 2 nhóm: do nhiệt khô (lửa, tia lửa điện, kim loại nóng chảy...) và do nhiệt ướt (nước sôi, thức ăn nóng sôi, dầu mỡ sôi, hơi nước nóng )

Bỏng do dòng điện chia thành 2 nhóm: do luồng điện có hiệu điện thế thông dụng (<1000V) và do luồng điện có hiệu điện thế cao (>1000V). Sét đánh cũng gây bỏng do luồng điện có hiệu điện thế cao.

- Bỏng do hóa chất gồm các chất oxy hóa, chất khử oxy, chất gặm mòn, chất gây độc cho bào tương chất làm khô, chất làm rộp da... Trong thực tế lâm sàng chia thành 2 nhóm: nhóm axit và nhóm chất kiềm. Bỏng do vôi tôi nóng là loại bỏng vừa do sức nhiệt vừa do chất kiềm.

- Bỏng do các bức xạ: tia hồng ngoại, tia tử ngoại, tia Rơnghen, tia laser, hạt cơ bản b, g.
- Bỏng lạnh.

2. Triệu chứng

Viêm đa cấp do bỏng (viêm vô khuẩn cấp): bỏng độ I.
- Bảng biểu bì: bỏng độ II.
Bỏng trung bì thường gọi là bỏng trung gian, bỏng đó là sâu, bỏng độ III, bỏng độ IIIA, bỏng độ III nông.
- Bỏng toàn bộ lớp da còn gọi là bỏng độ III, bỏng độ IIIB, bỏng độ III sâu, bỏng độ IV. Hoại tử ướt, hoại tử khô.
- Bỏng sâu các lớp dưới da còn gọi là bỏng độ III, bỏng độ III sâu, bỏng độ IV sâu dưới lớp cân, bỏng độ IV, bỏng độ V, bỏng độ vi bỏng độ VII.
- Có nhiều cách tính diện tích bỏng trong thực tế lâm sàng để dễ nhớ, dễ tính, thường kết hợp các cách sau:
+ Phương pháp con số 9: đầu mặt cổ 9%, 1 chi trên 9%, ngực bụng 18%, lưng và hai mông 18%, 1 chi dưới 18%, bộ phận sinh dục và tầng sinh môn 1%.
+ Phương pháp dùng bàn tay ướm (bàn tay người bị bỏng). tương ứng với 1% hoặc 1,25% diện tích cơ thể người đó.
+ Phương pháp tính theo con số 1, 3, 6, 9, 18: diện tích khoảng 1%: gan bàn tay (hoặc mu), cổ, gáy, tầng sinh môn - sinh dục ngoài; diện tích khoảng 3%: bàn chân, da mặt, da đầu ,cẳng tay, cánh tay, mông (một); diện tích khoảng 6%: cẳng chân, 2 mông; diện tích khoảng 9%: đùi, chi trên; đầu mặt có diện tích khoảng 18%: chi dưới, lưng - mông ngực - bụng

3. Xử trí khi bị bỏng

- Khi bị bỏng, cần tìm mọi cách để sớm loại trừ tác nhân gây bỏng (dập lửa, cắt cầu dao điện.). Ngay sau khi bị bỏng ngâm ngay vào nước lạnh (16-20°C) hoặc dưới vòi nước chảy từ 10-30 phút). Nếu chậm ngâm lạnh, sẽ ít tác dụng. Nếu bỏng do hóa chất thì phải rửa các hóa chất bằng nước và chất trung hòa. Băng ép vừa phải các vết thương bỏng để hạn chế phù nề, thoát định huyết tương. Cho uống nước chè nóng nước đường Oresol…, thuốc giảm đau, ủ ấm nếu trời rét. Vận chuyển nhẹ nhàng, tránh va chạm gây thêm đau.
- Đối với bỏng mắt, cần xử trí kịp thời để bảo vệ mắt: rửa mắt nhiều lần bằng nước lạnh sạch, vô khuẩn và gửi đến chuyên khoa mắt

4. Những sai làm khi sơ cứu bỏng

Khi bị bỏng, việc tự sơ cứu là rất cần thiết. Tuy nhiên, nhiều trường hợp do sơ cứu sai đã để lại những hậu quả đáng tiếc.
- Dùng kem đánh răng
+ Đối với bỏng nước sôi, bỏng lửa, không được dùng kem đánh răng vì chỉ làm tăng thêm sự đau đớn, bởi trong kem đánh rằng có chất kiềm nhẹ.
+ Đầu tiên, phải ngầm ngay vết bỏng vào nước lạnh hoặc dùng khăn ướt đắp lên vết bỏng để làm giảm nhiệt độ tại vết bóng
- Tùy tiện dùng mỡ trăn hoặc dầu cá:
+ Nhiều lọ mỡ trăn không được tiệt trùng nên hầu hết bị ôi thiu, do đó, vết bỏng bị nhiễm khuẩn rất nhanh. Còn dầu cá có mùi tanh, khi bôi lên sẽ gọi ruồi đến.
+ Thật ra mỡ trăn và dầu cá đều có thể chữa bỏng những phải dùng đúng lúc. Vitamin A trong dầu cá và mỡ trăn có tác dụng kích thích sự tái tạo tế bào biểu mô. Vì vậy, người ta thường sử dụng kết hợp với các thuốc khác tạo thành hợp chất có tác dụng như mỡ, kem.
+ Thuốc chỉ định cho những trường hợp bị bỏng sau, dùng vào tuần lễ thứ ba sau khi bỏng. Không dùng mỡ trăn và đầu cá vào việc sơ cứu.
Không bôi lòng đỏ trứng gà, nước mắm, nước tiểu, nước các loại củ... Lòng đỏ trứng gà là môi trường rất tốt cho vi khuẩn phát triển. Khi bôi lòng đỏ trứng, vết bỏng rất nhanh bị nhiễm khuẩn, có thể chuyển thành nhiễm nặng, rất nguy hiểm.
- Một số nơi còn dùng các biện pháp sơ cứu lạc hậu, nguy hiểm như vắt nước củ chuối, củ ráy lên vết thương.

5. Điều trị bệnh theo Tây y

- Cần chẩn đoán sớm diện bỏng và độ sâu của bảng để xử trí phù hợp. Có thể dùng chỉ số Frank để tiên lượng bỏng: cứ 1% là diện bỏng nông là 1 đơn vị, 1% diện bỏng sâu là 3 đơn vị. Khi chỉ số Frank từ 30-70 là sốc nhẹ, từ 70-100; sốc vừa, trên 110: sốc nặng và rất nặng. Đối với trẻ em và người già dù diện bỏng không lớn (<10% diện tích cơ thể), vẫn có thể xuất hiện các rối loạn bệnh lý của bệnh bỏng. Với phụ nữ có thai cần theo dõi thai nhi, khám sản khoa và chuyển ngay đến chuyên khoa bỏng
- Điều trị sốc bỏng ở bệnh viện cơ sở cần tiến hành ở buồng hồi sức cấp cứu. Phục hồi kịp thời và đủ khối lượng máu lưu hành hữu hiệu bằng cách truyền dịch theo đường tĩnh mạch (dịch keo, dịch điện giải, huyết thanh ngọt đẳng trương). Có thể dùng cách tính:
+ Dịch mặn đẳng trương 1ml x kg thể trọng x diện bỏng %. 
+ (Dịch keo 1ml) x (kg thể trọng) x (diện bỏng %) + (2000ml dich glucose 5%)
Cách tính thuận lợi cho ứng dụng lâm sàng:
+ Trong 24 giờ đầu lượng dịch truyền chữa sốc bỏng không quá 10% thể trọng
+ Liều truyền trong 8 giờ đầu từ 1/2-1/3 liều;
+ 16 giờ sau: 1/3-1/2 liều;
+ Trong ngày thứ 2 và thứ 3 (nếu còn sốc), lượng dịch truyền chữa sốc bỏng không quá 5% thể trọng bệnh nhân (cho mỗi ngày).
- Nếu vô niệu, dùng thuốc lợi niệu lasix, manitol; nếu bị toan chuyển hóa, dùng dung dịch kiềm natri bicacbonat.
Sau khi thoát sốc, điều trị toàn thân, chống nhiễm độc bỏng cấp, dự phòng và điều trị nhiễm khuẩn tại vết bỏng và toàn thân, nâng cao sức chống đỡ của cơ thể bằng truyền máu, dùng kháng sinh, nuôi dưỡng, dự phòng và điều trị các biến chứng
- Tại vết bỏng:
Bóng nông: dùng thuốc tạo màng (cao vỏ xoan trà, là sim, sến, tràm, củ nâu...) sau khi làm vô khuẩn.
+ Nếu bỏng sâu, từ tuần thứ 2 dùng thuộc rụng hoại tử, dung dịch kháng khuẩn, khi có mô hạt mổ ghép da các loại, dùng thêm bằng sinh học, da nhân tạo nếu bỏng sâu, diện rộng. Với bỏng sâu, diện không lớn mà trạng thái cơ thể bệnh nhân tốt, có thể mổ cắt bỏ hoại tử và ghép da sớm ở các cơ sở chuyên khoa.
- Với các di chứng bỏng (sẹo xấu, sẹo dính, sẹo lồi, sẹo có kéo, loét lâu liền..) cần được điều trị sớm bằng phẫu thuật tạo hình để phục hồi chức năng và thẩm mỹ. Các sẹo bỏng nứt nẻ, loét nhiễm khuẩn kéo dài cần được mổ ghép da để tránh bị ung thư da trên nền sẹo bỏng.

6. Điều trị bệnh bằng thảo dược theo kinh nghiệm dân gian

Trong trường hợp bệnh nhân bị bỏng ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện tiếp cận các cơ sở y tế khó khăn có thể sử dụng một số phương thuốc dân gian điều trị bỏng tại chỗ nếu bị bỏng nhẹ.
Lưu ý: Sau khi đã áp dụng một trong các bài thuốc sau nếu không thấy thuyên giảm phải đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất để được xử lý kịp thời.

Bài 1: Khi bị bỏng, nếu diện tích nhỏ, có thể chặt một tàu lá chuối non, sạch ở cao trên ngọn cây, hứng nước ở cuống lá chảy ra, dùng bông, gạc tẩm đắp lên vết bỏng, khô lại nhỏ nước lá chuối lên, vết bỏng sẽ dịu đi không phồng nước và khỏi. Có thể dùng các cây chuối khác: chuối tây, chuối ngự, chuối lùn... để thay thế chuối tiêu.

Bài 2: Lá non, ngọn dây khoai lang rửa sạch, giã nhỏ nhuyễn, trộn đều với ít nước sạch, đắp trực tiếp lên vết bỏng, có thể vắt ép lấy nước tẩm gạc đắp, khi khô lại tẩm nước ép lên.

3. Dùng thuốc thảo dược thiên nhiên hỗ trợ điều trị bệnh bỏng

Điều mà nhiều người không biết là các loại thuốc Tây, kể cả thuốc bổ sung Vitamin, Thực phẩm chức năng, các loại từ công ty bán hàng đa cấp… đều làm từ hóa chất hoặc các chiết xuất, bổ sung, bảo quản bằng hóa chất nên nó là nguyên nhân chính gây bệnh: khi hóa chất lọt vào cơ thể, gan sẽ làm mọi cách để trung hòa, vô hiệu hóa các chất này và sau đó thận sẽ lọc, loại bỏ,…

“Thảo Dược từ Thiên nhiên” sẽ mang đến một phương pháp tối ưu. Những Dược thảo quý từ Thiên nhiên được chứng minh sẽ giúp cơ thể tái lập trạng thái quân bình từ đó tự chữa lành bệnh. 

Các sản phẩm thảo dược được đề cập ở đây đến từ Công ty G & W Australia. Tất cả thuốc của G & W Australia đều là thuốc Đông Y (Herbal Medicine) nên quý vị có thể dùng để chữa bệnh hiệu quả trong khi các loại Dược thảo khác bán trên thị trường đều là thực phẩm bổ sung (Dietary Supplement) nên người tiêu dùng không thể chữa được bất cứ bệnh gì và để bán được hàng họ phải quảng cáo tinh vi và sớm hay muộn người tiêu dùng sẽ thất vọng.

Cần áp dụng Thực Dưỡng hiện đại và các thuốc từ thảo dược quý hiếm trong thiên nhiên để điều trị bệnh
Canh dưỡng sinh giúp kiềm hóa máu, giải độc
1. Canh Dưỡng Sinh
Với thành phần là các loại rau củ hữu cơ giàu khoáng chất, canh dưỡng sinh giúp kiềm hóa môi trường máu, tiêu diệt vi khuẩn, thải độc cơ thể. Người mắc bệnh mỡ máu cao nên uống Ngày 2 lần mỗi lần 1 gói khi ăn sáng & chiều.
Nếu không tìm mua được Canh dưỡng sinh, quý vị có thể tham khảo Cách nấu Canh Dưỡng sinh tại CLB100.

Immune Reviver - Hồi sinh miễn dịch2. Immune Reviver: Phục hồi hệ miễn dịch. Ngày uống 2 lần. Mỗi lần từ 1-2 viên sáng, chiều sau khi ăn. 
Age Reviver - Phục hồi sinh lực

3. Age Reviver: Phục hồi sinh lực toàn diện. Ngày uống 1 viên sau khi ăn trưa.

4. Biminne 2: 
Phòng chống các bệnh dị ứng, viêm xoang mũi
Ngày 2 lần – mỗi lần từ 1 – 2 viên sau khi ăn sáng & chiều

  Một số lưu ý dùng thảo dược 
  • Trong 5 ngày đầu dùng Biminne 01 viên/ lần/ ngày
  • Dùng Canh dưỡng sinh để giúp cơ thể diệt virus gây viêm nhiễm
  • Cần loại bỏ nguyên nhân trực tiếp gây dị ứng (không khí ô nhiễm, nguồn nước, ăn uống,…)

Các thuốc đề cập ở trên như Biminne 01, Immune Reviver, Age Reviver đều được nghiên cứu và phát triển bởi một nhóm nghiên cứu do Tiến sĩ GR Hu đứng đầu. Bác sĩ Hu có hơn 40 năm kinh nghiệm lâm sàng và nghiên cứu, đặc biệt trong lĩnh vực y học chống lão hóa, miễn dịch và dị ứng tại Đại học Sydney và Đại học Y Thượng Hải. 
 


Trước khi quyết định sử dụng bất kỳ sản phẩm nào để bổ trợ sức khỏe hay điều trị bệnh, quý vị nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia Thực Dưỡng để sức khỏe cải thiện tốt nhất!

Nếu quý vị đang mắc những căn bệnh mãn tính, mong bài viết này có thể sẽ hữu ích cho quý vị. Hãy đương đầu với bệnh tình bằng thái độ tích cực. Hãy kiên trì áp dụng Thực Dưỡng với lòng biết ơn Đấng tạo hóa. Quý trọng sự sống. Chú tâm đến nhu cầu tâm linh. Tinh thần lạc quan cũng chính là phương thuốc hay để quý vị có thể chịu đựng những khốn khó của bệnh tật. Tấm lòng vui mừng là phương thuốc hay - Tinh thần suy sụp làm sức hao mòn.

 
Chia sẻ bài viết
Tags
Bỏng

Tin liên quan

Hệ thống đang xử lý
Thông tin liên hệ của quý khách đã được gửi đến cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ nhanh chóng tiếp nhận và phản hồi thông tin cho quý khách trong thời gian thích hợp nhất. Đóng