1. Nguyên nhân
Bệnh truyền nhiễm do ký sinh trùng là những bệnh thường gặp ở tất cả các nước trên thế giới ở mọi lứa tuổi nhưng đặc biệt là ở trẻ em. Việt Nam là nước nhiệt đới, điều kiện kinh tế xã hội còn thấp, nhiều vùng tập quán sinh hoạt còn lạc hậu, vì vậy tỷ lệ mắc các bệnh truyền nhiễm lây qua đường tiêu hóa như dịch tả, dịch tiêu chảy cấp, các bệnh ký sinh trùng đường ruột là khá cao.
Nhiễm giun:
Giun kim: là loại giun tròn Enterobius vermicularis dài 2-13mm, sống ở đoạn cuối hồi tràng và manh tràng. Giun cái mang trứng và đẻ ở trực tràng. Giun này chủ yếu gây nhiễm cho trẻ em ở các khu vực tập thể. Nhiễm do thức ăn hoặc nước bẩn có chứa trứng giun, nhiễm tự nhiên ở trẻ em theo đường chân - tay - miệng. Biểu hiện chủ yếu là trẻ em bị ngứa hậu môn làm mất ngủ, do gãi có thể gây ra các vết xước quanh hậu môn, bé gái có thể bị viêm âm hộ, âm đạo. Chẩn đoán bằng việc phát hiện giun trong phân, tìm trứng giun bằng nghiệm pháp Scrotch. Điều trị bằng mebendazon, flubendazole hoặc albendazole.
Giun đũa: khoảng chừng 1 tỷ người trên thế giới nhiễm loại giun này, cao nhất là ở các nước nhiệt đới chậm phát triển. Bệnh do nhiễm loại Ascaris lumbricoides. Giun trưởng thành dài 20-30cm. Sống ở ruột non từ nhiều tháng đến 1 năm rưỡi. Giun cái đẻ trứng theo phân ra ngoài. Lây nhiễm do ăn hoặc uống nước có nhiễm trứng giun.
Nó phát triển qua hai giai đoạn, giai đoạn ấu trùng và giai đoạn trưởng thành và do đó biểu hiện lâm sàng cũng khác nhau. Giai đoạn ấu trùng có hội chứng Loeffler với sốt, họ khạc đờm giàu bạch cầu ái toan, X quang phổi có nhiều đám mờ không đối xứng, chỉ thoáng qua trong 5-7 ngày. Thời kỳ giun trưởng thành với các biểu hiện rối loạn tiêu hóa không đặc hiệu đau bụng buồn nôn, nôn khan; ngoài ra có thể gây giun chui ống mật, viêm đường mật, viêm tụy cấp, tắc ruột... chẩn đoán bằng tìm trứng giun trong phân hoặc phát hiện bằng các phản ứng điện di miễn dịch huỳnh quang. Điều trị bằng mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.
Giun móc: bệnh thường gặp ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới có khí hậu nóng ẩm. Giun trưởng thành dài 1-2cm sống ở tá tràng và hỗng tràng, chúng hút máu khoảng 0,2ml/ngày, sống trung bình 5 năm do đó gây ra tình trạng thiếu máu nhược sắc nặng. Điều trị bằng mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.
Giun lươn là loại Strongyloides stercoralis, loại giun này nhỏ dài 2-3cm, sống ở đoạn đầu ruột non, ít gặp hơn giun đũa và giun móc; ký sinh nhiều năm trong cơ thể vật chủ. Phát triển ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới nóng ẩm. Ấu trùng theo phân ra ngoài và lây nhiễm cho con người qua da khi tắm nước bẩn hoặc di chân đất trong bùn. Thường không có triệu chứng đặc hiệu, chỉ có các biểu hiện đau thượng vị, rối loạn tiêu hóa, táo lỏng xen kẽ từng đợt. Cần chú ý khi có sự lan tỏa của ấu trùng vào trong mọi phủ tạng là biến chứng nặng, thường xảy ra ở người suy giảm miễn dịch và thường gây tử vong. Chẩn đoán bằng tìm ấu trùng trong phân hoặc xét nghiệm dịch tá tràng và hồng trắng. Điều trị đặc hiệu là dùng thibendazole, có thể điều trị bằng mebendazole flubendazole hoặc albendazole.
Giun tóc: do loại Trichiuris Trichiura dài 4-5cm, sống ở đại tràng gặp ở toàn thế giới nhưng thường gặp nhất ở khu vực kém vệ sinh. Lây nhiễm do thức ăn, đồ uống sống, bẩn chứa trứng giun. Thường không có triệu chứng phát hiện tình cờ qua xét nghiệm phân. Điều trị bằng mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.
Nhiễm sán:
Sán sơ mít: gồm Taenia saginata và Taenia solium, đây là loại giun dẹt có đốt, đường kính 2-3mm, nhưng dài 5-7m; sán trưởng thành sống ở ruột non, mỗi đốt chứa trứng ra ngoài được bỏ hoặc lợn ăn. Người ăn thịt lợn hoặc bò này không được nấu chín sẽ mắc bệnh. Biểu hiện đau bụng mơ hồ, không đặc hiệu, chán ăn hoặc ăn không biết no. Trong sán bò có thể thấy các đốt sán trên giường hoặc quần áo bệnh nhân, còn sán lợn thì đốt sán chỉ theo phân có thể tìm trứng trong phân bằng nghiệm pháp Scotch. Điều trị bằng nicosamid hoặc praziquantel.
Sán máng: còn gọi là bệnh Bilharzia do loài sán dẹt Schistosoma gây ra. Có khoảng 200 triệu người trên thế giới mắc bệnh này, chủ yếu ở châu Phi. Lây nhiễm bắt đầu từ ấu trùng sống trong nước ngọt xâm nhập vào da bệnh nhân, sau đó theo các tĩnh mạch và bạch mạch về gan, tại đây phát triển thành ấu trùng sán đực trưởng thành, chúng tiếp tục di chuyển đến các tĩnh mạch mạc treo tràng, trứng của chúng tích tụ lại các nút tận cùng tĩnh mạch, sau đó đi vào lòng các cơ quan liên quan, cuối cùng được bài tiết theo phân hoặc nước tiểu. Biểu hiện lâm sàng giai đoạn cấp thường xuất hiện vào tuần thứ 4-6, với các triệu chứng đau đầu sốt, rét run, họ, đau cơ, đau khớp, gan to đau, tăng bạch cầu ái toan. Nếu không được điều trị sẽ chuyển sang mạn tính với các biến chứng tại gan và khoảng cửa, gây tắc nghẽn xoang hang và cuối cùng là gây tăng áp lực cửa, nếu nặng sẽ dẫn đến các biến chứng của tăng áp lực của như cổ chướng, lách to, giãn tĩnh mạch thực quản; đặc biệt nếu đồng nhiễm viêm gan B sẽ làm tăng nguy cơ ung thư gan. Điều trị bằng praziquantel, nếu không đáp ứng có thể dùng oxampiquin.
Sán lá gan lớn: do nhiễm loài sản Fasciola hepatica, xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Sán trưởng thành sống trong đường mật của bệnh nhân để trứng trứng theo phân ra ngoài, phát triển thành các mao ấu trùng, đóng kén vào các cây sống dưới nước, người ăn phải chúng sẽ vào ống tiêu hóa, đến gan và phát triển trong đường mật. Biểu hiện lâm sàng chia làm 3 giai đoạn, biểu hiện cấp tính là giai đoạn ấu trùng vào gan, các triệu chứng sẽ là sốt, đau vùng gan, tăng bạch cầu ái toan, gan to, chức năng gan bị tổn thương; giai đoạn tiềm tàng biểu hiện với các triệu chứng rối loạn tiêu hóa mơ hồ, đây là lúc sán khu trú trong đường mật giai đoạn tắc nghẽn là hậu quả của viêm và phì đại đường mật. Nhiễm khuẩn lâu ngày có thể gây xơ gan mật. Chẩn đoán dựa vào sự phát hiện kháng thể bằng CIE hoặc ELISA. Điều trị đặc hiệu bằng bithionol.
Sán lá gan nhỏ: con trưởng thành sống ở đường mật, đôi khi sống trong ống tụy. Trứng nở trong nước hoặc được ốc ăn vào sẽ nở thành ấu trùng, ấu trùng thâm nhập vào cá, đóng nang người ăn phải loại cá này chưa nấu chín (chủ yếu do tập quán ăn gỏi cá) sẽ mắc bệnh. Biểu hiện lâm sàng âm thầm và không đặc hiệu với sốt, đau bụng và tiêu chảy. Nếu để lâu dài không điều trị sẽ dẫn đến các biến chứng viêm đường mật, xe quanh khoảng của, có thể xuất hiện ung thư biểu mô đường mật. Chẩn đoán bằng việc tìm trứng trong phân. Điều trị chủ yếu bằng praziquantel.
2. Triệu chứng
Không có triệu chứng đặc hiệu (hạn hữu như giun kim có ngứa nhiều hậu môn vào buổi tối...). Khi thấy thải giun, đốt sán hay xét nghiệm phân thấy trứng ấu trùng. Thường chẩn đoàn được do nguyên nhân của một biến chứng như thiếu máu, đau bụng, tắc ruột suy dinh dưỡng.
3. Cách phòng bệnh
- Tuyên truyền rộng rãi cho mọi người biết tác hại của giun, cách lây truyền và phòng ngừa.
- Giáo dục tập quán vệ sinh phòng bệnh cho trẻ, đặc biệt trong sinh hoạt hằng ngày: không chơi đất, không tiêu bậy, không uống nước lã, không ăn rau quả sống, phải rửa tay trước khi ăn và sau lúc đại tiện.
- Người lớn phải làm gương cho trẻ em về vệ sinh thường nhật và vệ sinh ăn uống.
- Quản lý tốt phân, nước, rác thải không bón phân tươi cho rau củ, không phóng uế bừa bãi xuống ao hồ và ra đường dài, giếng lấy nước sạch, bảo vệ nguồn nước ăn không bị ô nhiễm, không đổ rác bừa bãi ra đường.
- Điều tra cơ bản tình hình nhiễm giun ở từng địa phương để có biện pháp cụ thể phòng bệnh.
- Học sinh các trường học, nhà trẻ, mẫu giáo phải được định kỳ kiểm tra phân để điều trị bệnh giun kịp thời, nhằm đảm bảo sức khỏe cho trẻ.
4. Điều trị bệnh bằng thảo dược theo kinh nghiệm dân gian
- Hạt bí ngô có chứa các axit amin, axit béo không bão hòa carbohydrate và nhiều vitamin B, C, D, E, K cùng những khoáng chất canxi, kali, photpho.
Hạt bí ngô giúp điều trị ký sinh trùng như giun, sán rất hiệu quả. Các tài liệu cho thấy, người bệnh nên dùng hạt bí ngô khi đói bụng để có thể tẩy được giun, sán.
Bạn bóc lớp vỏ cứng của hạt, giữ lại lớp màng xanh ở trong. Với người lớn, bạn lấy 100g nhân, cho vào cối sạch giã nhỏ rồi cho vào bát, thêm 50-100g mật ong hoặc đường vào trộn đều rồi dùng.
GS. TS. Đỗ Tất Lợi – nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng của nền Y học cổ truyền Việt Nam cho biết, bạn nên ăn hỗn hợp này trong vòng một giờ và ăn khi đói. Khoảng ba giờ sau, bạn có thể uống thuốc tẩy giun (magie sunfat), sau đó đi ngoài trong một cái bô đựng nước ấm để kích thích sán ra hết. Với trẻ nhỏ, tùy theo từng lứa tuổi mà bạn dùng lượng hạt bí ngô phù hợp. Cụ thể, trẻ con 3-4 tuổi ăn 30g nhân hạt, 5-7 tuổi ăn 75g. Bạn dùng hạt bí ngô tươi sẽ hiệu quả hơn hạt khô. Loại hạt này có thể gây rối loạn dạ dày ở một số người.
- Vỏ rễ lựu 40g, 4g đại hoàng, 4g hạt cau cho vào nồi, thêm 750g nước và đun đến khi còn khoảng 300ml nước và chia phần thuốc này thành 2-3 liều. Trước khi uống người dùng cần nhịn ăn vào tối hôm trước. Người bệnh cần nằm nghỉ ngơi đến khi muốn đi ngoài, ngâm hẳn mông vào chậu nước ấm. Lưu ý, phụ nữ có thai và trẻ em không nên dùng thuốc này.
- Đu đủ là trái cây cung cấp nhiều chất xơ, folate, vitamin A. C và E. Nó cũng chứa lượng nhỏ canxi, sắt, riboflavin, thiamine và niacine. Ngày ăn nửa quả.
- Do hạt cau có độc nên người dùng cần tuân thủ khối lượng như sau: trẻ dưới 10 tuổi dùng 30g hạt cau, phụ nữ và đàn ông nhỏ người dùng 50-60g người cao lớn uống 80g. Khi đói bụng, người bệnh ăn 40-100g hạt bí bỏ vỏ và uống nước sắc hạt cau vào hai giờ sau đó. Bạn lấy lượng hạt cau phù hợp, thêm 500ml nước đem đun, nhỏ một ít dung dịch gelatin 2,5% vào đến khi kết tủa để gan lọc. Đun tiếp còn 150-200ml rồi uống. Sau 30 phút, bạn sẽ uống 30g magie sulfat.
- Trâm bầu với lá me tam thế, lượng bằng nhau, thái nhỏ trộn đều, thêm bột vào làm bánh, hấp lên ăn vào sáng sớm lúc đói.
- Rau sam tươi 50g thêm ít muối giã nát vật lấy nước thêm ít đường vào cho dễ uống uống liên tục 3-5 ngày.
- Tỏi giã nát ngâm với nước đun sôi để nguội với tỷ lệ 10%. Ngâm 1-2 giờ lọc qua gạc, trộn 100ml dịch đó với lòng đỏ trứng gà, thụt giữ trong 20 phút, thời gian điều trị 3-5 ngày
- Cỏ cúc áo, phơi khô, tán mịn, làm hoàn bằng hạt ngô đồng Uống 20-30 viên/lần, lúc đói, ngày 2-3 lần, liên tục nhiều ngày.
- Sơn khô (Sơn ta) sao cháy, tán mịn, làm hoàn bằng hạt ngô đồng. Uống 10 viên/lần, lúc đói, ngày 2-3 lần, liên tục nhiều ngày.
- Sử quân tử sao cháy, tán bột mịn. Uống: số tuổi +1g/lần ngày 02 lần, liệu trình 02 ngày liên tục.
- Phi tử - Hạ (dùng sống càng tốt) 10-15 quả, thái nhà sắc lấy nước uống
- Bách bộ sau, nghiền thành bột mịn. Uống 1g/tuổi/ngày. Liệu trình 2-3 ngày liên tục.
- Hạt cau (binh lang) 20g, nam qua tử nhân (bỏ vỏ) 20g Sắc 01 tháng/ngày, chia 02 lần uống (sáng, tối). Uống liên tục trong 3 ngày.
- Bách bộ 20g, khổ sâm 20g, hoa tiêu 8g. Sắc nước, trước khi ngủ rửa giang môn và vùng tiền âm, liên tục trong 3 ngày.
- Giấm thanh, bôi chung quanh giang môn, liên tục trong 3 ngày.
- Bột tẩy giun: Sử quân tử 8 phần, đại hoàng 1 phần (trộn đều). Uống; số tuổi + 1g/lần, ngày 02 lần, liệu trình 03 ngày liên tục.
- Bách bộ sống 40g cho vào 200ml nước, sắc còn 40m tối (trước khi đi ngủ) thut đại tràng, liên tục trong 5 ngày.